Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Những nét đặc trưng về cơ cấu xã hội của người K'Ho

Do đặc điểm của từng vùng cư trú và những điều kiện lịch sử khác nhau nên giữa các nhóm dân tộc K’ho đã có một sự chênh lệch nhất định về trình độ phát triển xã hội. Trước đây, những nhóm sinh sống trên những vùng núi cao, vùng xa xôi hẻo lánh của cao nguyên Langbian… thì đốt rừng làm rẫy (mir) là phương thức canh tác yếu, họ thường phải sống du canh, du cư từ nơi này sang nơi khác, nên làng mạc (bon) của họ cũng chỉ là tạm thời.
Cũng như các dân tộc Tây Nguyên nói chung và người K’ho nói riêng thì làng (bon) vẫn là một một đơn vị tổ chức xã hội cao nhất mà họ đã đạt đến.

Về mặt địa lý, làng (bon) là một khoảng đất rộng vài ba cây số vuông, trên vùng núi cao hoặc các thung lũng gần sông suối... giữa các làng thường có ‘’ranh giới’’ rõ rệt bằng các cột móc thiên nhiên như con sông, ngọn suối, hoặc đỉnh đồi... do các chủ làng (quăng bon) quy ước với nhau và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Về mặt kinh tế, mỗi thành viên trong làng đều có quyền phát rẫy, săn bắn, hoặc bắt cá trong vùng rừng núi và những sông suối thuộc quyền quản lý của cộng đồng làng theo sự hướng dẫn của chủ làng (quăng bon) và các chủ rừng (tơmbri) tại những thung lũng, vùng canh tác ruộng nước thì thổ cư và ruộng đất đã dần dần thuộc về quyền sở hữu, quản lý của từng đại gia đình hay tiểu gia đình hoặc dòng họ. Buôn làng là một đơn vị kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp và khép kín.

Về mặt xã hội, làng (bon) là một công xã thị tộc mẫu hệ, nghĩa là mọi người trong làng đều có quan hệ huyết thống về bên ngoại và cư trú trong một nhà dài sát cạnh nhau.

Đứng đầu làng là chủ làng (quăng bon). Đó là một người đàn ông khoẻ mạnh được chọn trong số những người đàn ông cao tuổi nhất của làng, điều quan trọng hơn hết ông ta phải là một người hiểu biết tường tận các phong tục, tập quán của làng và của dân tộc mình. Vì vậy chủ làng là một người đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn chỉ bảo dân làng sản xuất, tổ chức đời sống, bàn bạc giải quyết những công việc đối nội và đối ngoại của làng. Tuy nhiên chủ làng cũng như mọi người lao động khác, nghĩa là ông ta cũng phải lao động cật lực để tự nuôi sống bản thân và con cái của mình tuy nhiên về mặt tinh thần ông ta có một uy quyền tuyệt đối đối với mọi thành viên trong làng.

Như vậy, bên cạnh các chủ làng (quăng bon) còn có các chủ rừng (tơmbri), thầy cúng (Gru) và các gia trưởng (Pôniu)...Họ thường được gọi là những ‘’tầng lớp trên’’ và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và tín ngưỡng trong xã hội truyền thống của người K’ho.

Nếu như trong xã hội truyền thống cổ truyền, làng (bon) là một công xã thị tộc, hay là một đại gia đình mẫu hệ, thì dưới chế độ thực dân cũ và mới làng (bon) đã trở thành một công xã láng giềng và thành một đơn vị hành chính. Làng gồm nhiều làng cũ nhiều nhóm tộc người có phong tục, tập quán, tín ngưỡng và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau cùng cư trú.

Cùng với sự phát triển nội tại của người K’ho và sự tác động mạnh mẽ của các xã hội có giai cấp bên ngoài: Xã hội phong kiến Chăm, Khơme, mà đặc biệt là chính sách tước đoạt đất đai, nương rẫy để lập đồn điền của thực dân Pháp cũng như chính sách dồn dân lập ấp chiến lược của Mỹ trước đây đã tạo nên những biến động trong sinh hoạt kinh tế - xã hội của người K’ho.



Về vấn đề quan hệ gia đình và cộng đồng: Người K’ho hiện nay vẫn tồn tại hình thức gia đình mẫu hệ. Tuy nhiên tổ chức đại gia đình mẫu hệ của người K’ho đang dần dần tan rã, gia đình nhỏ đã xuất hiện và ngày càng phổ biến. Nhưng một điều đáng chú ý trong tổ chức gia đình người K’ho là bất kể gia đình lớn hay gia đình nhỏ đều duy trì tàn dư sâu đậm của chế độ mẫu hệ, nghĩa là con cái được tính theo dòng họ mẹ, con cái được thừa kế tài sản của gia đình và phần lớn những quyền hành trong gia đình đều thuộc về người mẹ hoặc người cậu, tuy nhiên trong gia đình cũng như trong xã hội, vai trò của người đàn ông cũng đã được chú trọng và nhất là trong lao động sản xuất.

Về hôn nhân, chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên nhà vợ đã được xác lập và được duy trì của người K’ho, người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân (người K’ho có tục bắt chồng). Cho đến nay hôn nhân của người K’ho vẫn dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa đôi bên trai gái, cha mẹ không bao giờ cưỡng bách việc hôn nhân của con cái mình, sau khi kết hôn người con trai thường cư trú vĩnh viễn bên nhà vợ. Hiện tượng quan hệ nam nữ tiền hôn nhân trong xã hội người K’ho không được coi trọng và không ảnh hưởng gì đến hôn nhân. Nhưng việc ngoại tình lại là một trọng tội và bị luật tục trừng phạt một cách nặng nề, ngoài ra những trường hợp ly hôn thì phải được chủ làng chấp thuận.


Luật Tục Bắt chồng của người K'Ho

Về vấn đề quan niệm, phong tục tập quán: Người K’ho tin rằng mọi mặt đời sống của mình đều có các thế lực siêu nhân quyết định, tín ngưỡng truyền thống của người K’ho, có nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng của cư dân bản địa Lâm Đồng (dân tộc Mạ, K’ho, Churu). Cư dân K’ho tin vào hệ thống các thần linh mà họ gọi là Yàng.

Yàng (cư dân người K’ho thường gọi là trời hay là thần), danh sách các Yàng không ai có thể nắm đủ, nhưng khá nhiều chủ yếu là các thiên thần,  các phúc thần, các thần nông nghiệp. Đó là Yàng brê (Yàng bri) - thần rừng, Yàng bnơm (Yàng Vơnơm) - thần núi, Yàng ù hoặc Yàng tiăh - thần đất, Yàng kòi, (Yàng koi, Yàng kue) - thần lúa, Yàng hìu - thần nhà, Yàng măt tơ ngai - thần mặt trời...

Trong danh sách các Yàng thì có một vị là N’DU (đọc là Nờ Đu), có khi được gọi là K’ĐU hay K’NĐU. Theo huyền thoại thì đó là một trong những vị thần sáng tạo bầu trời, mặt trời, trăng, sao... Mặc dù N’ĐU là vị thần tối cao nhưng trong các dịp tế lễ người K’ho ít cầu đến vị thần này mà thường cầu xin những vị thần tấp hơn. Do đó N’ĐU là thần tối cao, tượng trưng cho sự an lành nhưng không gần gũi với người K’ho bằng những vị thần khác ở ngôi vị thấp hơn.

Đối nghịch với thần là những ma quỷ (Chà), luôn luôn gây ra những tai nạn cho con người như phá hoại mùa màng, gieo các bệnh tật, mục tiêu chính của Chà là làm hại con người. Người K’ho tin rằng chính Chà là kẻ ‘’ăn linh hồn’’ người chết.

Trong tín ngưỡng của người K’ho, cư dân tin rằng ngoài thế lực Yàng Chà còn có nhiều vật thiêng khác đáng tôn thờ vì chúng có thể mang lại may rủi cho con người.

Do đời sống kinh tế của người K’ho cơ bản dựa vào nông nghiệp cho nên những lễ nghi liên quan đến việc làm rẫy, làm ruộng là những lễ nghi quan trọng nhất và được tiến hành thường xuyên nhất. Một số lễ nghi nông nghiệp của người K’ho như: Kơn’ ràk chi - Cúng phát rẫy, R’nuăl ồs - Cúng sau khi phát rẫy xong, Duh Khoai Dơng  Lễ cúng khi lúa, bắp sắp trổ đòng, Woàk rồch mbô, kòi - Cúng lúa, bắp về nhà.




Những hiện tượng tín ngưỡng đa thần như trên phổ biến và thống trị trong xã hội người K’ho. Nhưng bên cạnh đó đã thấy xuất hiện những bộ phận dân chúng tin theo những tôn giáo từ bên ngoài du nhập vào như thiên chúa giáo và Tin lành...


Từ sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, người K’ho ở Lạc Dương đã có nhiều biến đổi khá cơ bản, nhân dân lao động đã đấu tranh quyết liệt và thoát dần sự chi phối của bọn phản động trong tôn giáo, ra sức xây dựng đời sống mới: Thực hiện chủ trương định canh, định cư của Đảng và nhà nước. Ngày nay, vùng người dân K’ho đã lập được an ninh trật tự vững chắc, chính quyền nhân dân được cũng cố, đời sống kinh tế nhất là văn hoá, giáo dục, y tế trong những năm gần đây đang được phát triển nhanh chóng, ngày một giàu đẹp hơn.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét